Đăng nhập / Đăng ký

Mua sắm thông minh!

Tiểu Sử Hòa Thượng Tuyên Hóa - Thích Hoằng Đạt

So sánh giá Tiểu Sử Hòa Thượng Tuyên Hóa - Thích Hoằng Đạt

Đã bán: 0 | Lượt xem: 22

Giá rẻ nhất

NewShop

Giá bán: 99.000₫

Giá gốc: 110.000₫

Mua ngay

Nơi bán Tiểu Sử Hòa Thượng Tuyên Hóa - Thích Hoằng Đạt

Tìm thấy 2 nơi bán, giá từ 99.000₫ - 110.000₫

Giá rẻ nhất
Mua Tiểu Sử Hòa Thượng Tuyên Hóa - Thích Hoằng Đạt tại NewShop

Giá tại NewShop Hàng chính hãng

0 lượt bán

99.000₫

110.000₫

Giá tốt thứ 2
Mua Tiểu Sử Hòa Thượng Tuyên Hóa - Thích Hoằng Đạt tại Tiki

Giá tại Tiki Hàng chính hãng

0 lượt bán

110.000₫

110.000₫

Thông tin sản phẩm

 
TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA  - TỪ HƯ KHÔNG ĐẾN – TRỞ VỀ HƯ KHÔNG

“Khi đến thế gian, tôi không có gì cả. Khi rời thế giới này, tôi cũng không mang theo gì cả. Tôi không muốn lưu lại vết tích gì ở cõi đời, vì tôi từ hư không đến và sẽ trở về với hư không”.
Lời di huấn hùng hồn của cố Hòa thượng Tuyên Hóa nhắc nhở chúng ta về lời dạy của Phật Thích Ca trong kinh Kim Cang:
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bọt, bóng,
Như sương, cũng như điện,
Nên quán sát như thế”.
Thật vậy, dẫu có để lại công nghiệp hoằng dương Phật pháp vĩ đại tại Tây Phương trên ba mươi năm ròng, như tiếp độ biết bao đệ tử xuất gia và tại gia, tạo lập hơn ba mươi đạo tràng và học đường lớn nhỏ, cùng thuyết pháp và phiên dịch hàng trăm kinh điển Đại Thừa, nhưng đối với cố Hòa thượng Tuyên Hóa, Ngài xem những công nghiệp đó như huyễn và như việc: ‘Trong mộng làm Phật sự’, vì đã thể nhập với chân như pháp tánh thường trụ, không còn bốn tướng: ‘Nhân, ngã, chúng sanh, thọ giả’.
Tuy nhiên, với phàm phu ngu si hữu lậu chúng ta làm sao quên được công đức sâu dày và công nghiệp vĩ đại mà Ngài đã để lại cho những kẻ hậu lai! Vậy, chúng ta hãy cùng nhau đọc qua hành trạng của Ngài được gói gém trong quyển sách nhỏ này để noi gương theo Ngài cùng các bậc Hiền Thánh Tăng mà dũng mãnh tiến bước trên đạo lộ giác ngộ.

Tựu chung, hành trạng của Ngài được tóm tắt như sau:

Đại lão Hòa thượng Độ Luân, tự Tuyên Hóa, tục danh Bạch Ngọc Thư, xuất thân tại huyện Song Thành tỉnh Kiết Lâm (Tùng Giang, đông bắc Trung Quốc), vào ngày mười sáu tháng ba âm lịch, năm 1918.
Thân phụ của Ngài tên là Bạch Phú Hải, chuyên làm nghề nông. Thân mẫu của Ngài thuộc dòng dõi họ Hồ. Ngài là người con út trong gia đình tám anh chị em. Khi Ngài chào đời cũng là lúc bà mẹ cảm thấy như có mùi hương kỳ diệu lan tỏa khắp căn phòng sau cơn mộng thấy Phật A Di Đà hiện thân phóng ánh hào quang, chiếu sáng khắp thế gian, chấn động trời đất.

Năm mười một tuổi, Ngài sớm nhận biết lý vô thường của nhân sanh vũ trụ. Để báo đền công ơn sanh thành dưỡng dục của song thân, ơn đức của các bậc thánh hiền, cùng để chuyển hóa tâm niệm của các kẻ xấu, vào những đêm khuya thanh vắng, Ngài thường ra sân nhà để lễ hơn tám trăm lạy, chẳng quản gió mưa, khi vừa tròn mười hai tuổi. Song song với sự lễ bái, ngày ngày Ngài kính phụng cha mẹ như kính thờ chư Phật, nên thanh danh hiếu thảo lan truyền khắp nơi với biệt danh ‘Bạch Hiếu Tử (người con chí hiếu họ Bạch)’.
Sau khi chu toàn việc mai táng người mẹ khi bà qua đời vào năm 1936, Ngài đến chùa Tam Duyên, lễ Hòa thượng Thường Nhân làm Thầy, xuất gia thọ giới Sa Di, rồi trở lại phần mộ của mẹ hiền để hành hạnh thủ hiếu ba năm liền, chẳng kể gió mưa sương tuyết; năm đó, Ngài mới tròn mười chín tuổi. Với tâm thành báo hiếu thân mẫu, với việc phát mười tám đại nguyện, và với công hạnh tu hành tụng kinh, bái sám, tọa thiền, Ngài đã cảm hóa những kẻ hữu duyên cũng như được Lục Tổ Huệ Năng thị hiện ấn chứng và thọ ký cho việc hoằng dương Phật pháp ở Tây Phương sau này.
Về sau, Ngài du hành xuống miền Nam, đến thọ giới Cụ Túc tại núi Phổ Đà với pháp danh Độ Luân, rồi tìm tới chùa Nam Hoa, lễ bái đại lão Hòa thượng Hư Vân vào năm 1948. Vừa gặp Ngài, đại lão Hòa thượng Hư Vân, lúc ấy đã được 109 tuổi, liền nhận ra sự chứng ngộ của người  đệ tử mới, nên ấn chứng: “Như Thị! Như Thị!” Nghe lời ấn chứng đó, Ngài bèn đáp lại: “Như Thị! Như Thị!”.

Từ năm 1950 đến năm 1960, Ngài sang Hồng Kông hoằng pháp lợi sanh và kiến lập chùa Tây Lạc Viên, Từ Hưng Thiền Viện, Giảng Đường Phật Giáo. Trong năm 1956, Ngài được đại lão Hòa Thượng Hư Vân truyền trao pháp mạch với pháp hiệu là Tuyên Hóa, chánh thức là vị tổ thứ chín dòng thiền Quy Ngưỡng; nghĩa là vị tổ Thiền Tông đời thứ bốn mươi lăm kể từ sơ tổ Ca Diếp.

Kế đến, Ngài sang nước Mỹ hoằng dương Phật pháp vào năm 1962. Song, vì cơ duyên hoằng pháp chưa chín mùi, Ngài phải ẩn tu từ năm 1962 đến năm 1968. Đương thời, Ngài tự gọi mình là ‘Mộ Trung Tăng (vị tăng sống trong phần mộ)’ hay ‘Hoạt Tử Nhân (người đã chết nhưng vẫn còn sống)’. Vào mùa hè năm 1968, tại vùng Cựu Kim Sơn, Ngài mở khóa tu học kinh Thủ Lăng Nghiêm cho một nhóm sinh viên và giáo sư đại học người Mỹ từ thành phố Seattle, tiểu bang Washington. Tháng Chạp năm sau, có năm người Mỹ, ba nam hai nữ, phát tâm  theo Ngài thọ giới xuất gia, trở thành tăng ni người Mỹ đầu tiên ở Hoa Kỳ. Từ đó, Ngài liên tiếp dạy pháp thiền và diễn giảng kinh điển Đại Thừa như Kim Cang, Hoa Nghiêm, Bát Nhã,

Ngài thường dạy các đệ tử xuất gia:
“Dầu rét chết, không phan duyên.
Dầu đói chết, không van nài.
Dầu nghèo chết, không cầu cạnh.
Tùy duyên không đổi, không đổi tùy duyên.
Chúng ta quyết thực hành ba tông chỉ chính này.
Xả mạng vì Phật sự.
Tạo mạng vì Tăng sự.
Chánh mạng vì Bổn sự.
Nơi sự hiểu lý, nơi lý hiểu sự.
Luôn hành Tổ Sư nhất mạch tâm truyền”.

Ngoài ra, Ngài định đặt tiêu chuẩn tu hành cho mình và những đệ tử xuất gia lẫn tại gia, là phải theo sáu tông chỉ: Không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói láo. Đặc biệt, Ngài rất chú trọng và quan tâm đến giới luật của tăng chúng, vì ‘Giới Luật Còn Thì Phật Pháp Còn’. Do đó, thể theo giới luật của Phật định chế, Ngài tự nghiêm trì và dạy tăng chúng thực hành hạnh mỗi ngày thọ trai một buổi, và y ca sa không rời thân. 
Vào năm 1982, Ngài thành lập chương trình huấn luyện Tăng Ni và Cư Sĩ, với mục đích nhấn mạnh việc tu trì học tập Phật pháp trong khuôn viên tự viện, dựa trên nền tảng Giới, Định, Huệ.
Lại nữa, Ngài thành lập viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế để phiên dịch các kinh điển Đại Thừa từ tiếng Tàu sang tiếng Anh ngõ hầu giáo lý của Phật đà được truyền bá phổ cập vào xã hội Tây phương. Kể từ đó, Viện đã phiên dịch và xuất bản hàng trăm bộ kinh Đại Thừa, đi song đôi với những lời chú giải ngắn gọn và dễ hiểu của Ngài.

Ngoài ra, Ngài thành lập trường tiểu học Dục Lương, trung học Bồi Đức, đại học Pháp Giới, hầu mong bồi dưỡng nhân tài cho Phật giáo tại Tây Phương.
Vì số người Mỹ đến cầu đạo ngày một tăng, Ngài thành lập hội Phật giáo Trung Mỹ. Dần dần, tín chúng Phật tử thuộc nhiều thành phần và sắc tộc khác nhau đổ dồn về, quy y, thọ giới, học đạo, ngày một gia tăng. Để thích ứng với điều kiện mới và hệ thống hóa tổ chức theo tầm vóc quốc tế, Ngài đổi danh hiệu hội Phật giáo Trung Mỹ thành Tổng hội Phật giáo Pháp giới vào năm 1984, đặt trung tâm chính tại chùa Vạn Phật Thánh Thành.
Ngài thường chủ trương hợp nhất Phật giáo Nam Tông và Bắc Tông thành một khối duy nhất để thuận tiện cho việc hoằng dương Phật pháp ở Tây phương. Điển hình, Ngài thường thỉnh mời chư tăng Nam Tông và Bắc Tông thuộc các sắc tộc khác nhau đến giảng kinh thuyết pháp cũng như truyền giới xuất gia tại chùa Vạn Phật Thánh Thành. Ngài lại chủ trương hòa đồng tôn giáo. Cụ thể, Ngài thỉnh mời hồng y Thiên Chúa giáo là Vu Bình ở Đài Loan, sang làm chủ tịch trung tâm Nghiên Cứu Tôn Giáo Thế Giới tại chùa Vạn Phật Thánh Thành. Tiếc thay, hồng y Vu Bình qua đời đột ngột, khiến đình chỉ dự án đó.

Sau này, tại tu viện ở Phật giáo Berkeley, Ngài thành lập viện Nghiên Cứu Tôn Giáo Thế Giới vào năm 1994.
Hơn ba mươi năm hoằng hóa ở Tây phương, cuối cùng Ngài an tường thị tịch vào mồng bảy tháng sáu năm 1995, tại vùng Los Angeles tiểu bang California, thọ bảy mươi tám tuổi. Tuy nhân duyên hóa độ chúng sanh tạm hết, nhưng Ngài đã để lại cho Phật giáo và chúng sanh một công nghiệp vĩ đại: Hàng trăm tăng ni thuộc nhiều sắc tộc như Mỹ, Việt, Tàu, Ý, lần lượt thọ giới xuất gia. Hơn ba mươi đạo tràng Phật giáo được thành lập tại nước Mỹ, Gia Nã Đại, và những vùng Đông Nam Á.
Suốt cuộc đời, Ngài luôn khiêm cung, vô ngã, và trải lòng đại bi đến tất cả chúng sanh. Ngài hành đạo không nghỉ ngơi, chỉ muốn dẹp trừ màn vô minh, ngu si đang che lấp bản tánh chân thật của chúng sanh. Ngài mải miết hành đạo vì nền hòa bình của nhân loại, tôn giáo, thế giới.

Thật vậy, Ngài đã để lại một tấm gương tu hành sáng ngời bất diệt của một vị Thánh Tăng mà hàng hậu học chúng ta cần phải noi theo ngõ hầu dũng mãnh tiến bước đến đạo quả Bồ Đề vô thượng.